Bài kiểm tra tự luận Cơ sở Văn Hóa Việt Nam

 Đề số 3:

Hai đặc trưng quan trọng nhất của làng xã Việt Nam truyền thống là gì? Cho ví dụ minh hoạ . Liên hệ hai đặc trưng đó trong văn hoá ngày nay.

Bài làm

Làng xã từ bao đời này là nơi cư trú của người nông dân Việt, là nơi lao động, sản xuất và tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Nét đặc trưng về làng xã đã đi vào ký ức người Việt với những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi, thân thương.

Hai đặc trưng cơ bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam chính là: tính cộng đồng và tính tự trị.

Đặc điểm của làng xã  truyền thống là tự trị, tự quản. Thời điểm này, Nhà nước chỉ mới quản lý ở mức độ nhất định đối với làng xã, trong khi đó, lãng xã cơ bản vẫn là những đơn vị tự trị, tự quản. Về mặt cơ cấu tổ chức, mỗi làng Việt là một thiết chế tự quản, tự nó phải giải quyết việc các việc trong cộng đồng liên quan đến tất cả các mặt trong đời sống. Việc quản lý trong nội bộ làng xã thì các thành viên trong làng có vị trí nhất định.

Ví dụ:  Hương ước được coi là văn bản pháp lý của mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về dân sự, hình sự, các điều ước giữ gìn đạo lý, phong tục, tập quán… có liên quan đến tổ chức xã hội như đời sống trong làng. Hương ước khác với luật nước, nhưng không phải hương ước luôn trái với luật nước. Các hương ước làng đều có những quy định đến cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội trong làng; những quy ước về bảo vệ an ninh làng xã, đảm bảo cuộc cuộc của cộng đồng và những nghĩa vụ đối với nhà nước. Hầu hết các điều khoản của hương ước quy định trách nhiệm và chế độ thưởng phạt trước hết và chủ yếu đối với các cá nhân trong làng trong việc thực hiện các công việc của cộng đồng. Với các điều khoản này, hương ước trực tiếp kiểm soát thái độ ứng xử của từng thành viên, không phân biệt già trẻ, nam, nữ thuộc bất kỳ hình thức tổ chức và giai tầng xã hội nào, có địa vị hoặc tài sản ra sao. Thông qua hương ước, làng xã quy định nghĩa vụ và quyền lợi của từng cá nhân đối với cộng đồng; đồng thời giám sát việc tuân thủ lệ làng của mỗi cá nhân đó. Như thế, hương ước đã tạo ra sự ràng buộc, sự áp đặt và cả sự cưỡng chế của cộng đồng đối với mọi người trong làng. Cũng nhờ đó, hương ước còn làm được một nhiệm vụ quan trọng; là sợi dây nối liền các tổ chức xã hội trong làng.

Tính tự trị, tự quản của làng qua hương ước còn thể hiện ở chỗ, lệ làng nhiều khi được coi trọng hơn pháp luật nhà nước. Mỗi làng có hương ước riêng mà nội dung bao gồm các điều chỉ liên quan tới đời sống của từng làng là biểu hiện rõ nhất cho tính tự quản, tự trị của làng. Bên cạnh đó, trong mỗi làng Việt xưa, người nông dân tập hợp lại với nhau trong nhiều hình thức tổ chức khác nhau: xóm ngõ, dòng họ, phe giáp, phường hội và theo các thiết chế của bộ máy chính trị - xã hội, mà cách tập hợp, tổ chức rất khác nhau

Tính cộng đồng là một trong hai gốc rễ đặc trưng trong làng xã Việt. Tính chất tự trị, tự quản cao như thế nên người ta đánh giá làng xã truyền thống  “như một nước thu nhỏ”, với những thiết chế chặt chẽ, những quy định bảo đảm “dân chủ làng xã” và góp phần củng cố ý thức cộng đồng làng. Ý thức cộng đồng làng thể hiện trên hầu hết các mặt của cuộc sống ở làng quê như tính cộng đồng trong sản xuất, trong việc chế ngự thiên tai, bảo vệ đê điều, trong việc chống giặc ngoại xâm bảo vệ làng, bảo vệ dân tộc, trong việc xây dựng văn hóa lối sống, đạo đức…. Tình làng xóm láng giềng và bao trùm hơn cả là tình yêu thương đồng loại

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Cuộc sống của người dân Việt trong làng xã cổ truyền gắn với nền nông nghiệp lúa nước, vì vậy, trong cuộc sống họ thường liên kết với nhau, nương tựa vào nhau, từ đó hình thành nét đặc trưng của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng, Đặc trưng văn hóa nông nghiệp là trọng tình, trong quan hệ cũng như ứng xử với môi trường tự nhiên, xã hội lấy cái tình làm trọng. Con người Việt Nam có tinh thần yêu nhà, yêu làng, yêu nước, sống trọng tình nghĩa,

Lòng yêu thương và sống có nghĩa tình còn được biểu hiện trong sự tương trợ, giúp đỡ nhau; sự khoan dung, vị tha dành cho cả những người đã từng lầm đường lạc lối biết lấy công chuộc tội. Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thương, sự khoan dung, độ lượng với con người của dân tộc Việt Nam.

Ngày nay, truyền thống nhân nghĩa đó không bị mai một hay mất đi, ngược lại tiếp tục được khẳng định và củng cố khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện đường lối nhất quán “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Trải qua thực tiễn trong cuộc sống lao động cũng như chiến đấu, tinh thần đoàn kết dân tộc càng được đề 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét