KIỂM TRA TỰ
LUẬN HỌC PHẦN QUẢN TRỊ KINH DOANH TỔNG HỢP
ĐỀ KIỂM TRA TỰ LUẬN
HỌC PHẦN QUẢN TRỊ KINH DOANH TỔNG HỢP
(Sinh viên lựa chọn một trong các đề để thực
hiện)
ĐỀ SỐ 01
Từ 15/5/2012,
Viettel đã chính thức hoạt động kinh doanh viễn thông tại Mozambique (châu
Phi). Sau hơn một năm đầu tư tại đây, Công ty Movitel (thương hiệu viễn thông của
Viettel tại Mozambique) đã sở hữu mạng lưới lớn nhất, phủ sóng rộng nhất tại
Mozambique với 1.800 trạm phát sóng (2G và 3G) phủ 100% quận, huyện, đóng góp
hơn 50% hạ tầng mạng điện thoại di động của Mozambique. Movitel cũng xây dựng hệ
thống kênh phân phối với 50 cửa hàng và 25.000 điểm bán, đại lý đến từng huyện,
xã. Tính đến nay, Viettel đã đầu tư tại 10 quốc gia: Lào, Campuchia, Haiti,
Mozambique, Timor, Peru… Doanh thu năm 2011 của Viettel đạt gần 6 tỷ USD. Với
60 triệu thuê bao đang hoạt động trên toàn cầu, Viettel nằm trong top 15 công
ty viễn thông lớn nhất thế giới về số lượng thuê bao.
Mới đây,
Lumitel – thương hiệu mạng viễn thông của Viettel tại Burundi đã trở thành nhà
mạng đầu tiên cung cấp dịch vụ 4G LTE tại đất nước này. Lumitel chính thức cung
cấp dịch vụ Internet 4G với tốc độ 100Mbps tại các tỉnh chính của Burundi gồm
Bujumbura, Gitega, Ngozi, Muyinga và Makamba Rumonge. Việc một nhà mạng mới gia
nhập thị trường chưa tới 1 năm đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và tiên
phong cung cấp dịch vụ 4G trước cả các đối thủ lâu năm khác đã gây một tiếng
vang lớn tại Burundi và khu vực.
Gia nhập thị
trường vào tháng 4/2015, chưa đầy 4 tháng sau, Lumitel đã cán mốc 1 triệu khách
hàng và hiện tại đang là nhà mạng lớn nhất với mặt hạ tầng mạng lưới phủ sóng đến
hơn 90% toàn quốc và 1,3 triệu khách hàng. Báo chí nhận định "Lumitel sẽ
là công ty viễn thông hàng đầu Burundi trong tương lai". Đây cũng chính là
mục tiêu của Viettel ở Burundi nói riêng và các thị trường mà Viettel đầu tư
nói chung khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đầu tư nhanh, mạnh để trở
thành nhà mạng lớn nhất về mặt hạ tầng mạng lưới, vùng phủ, công nghệ và chất
lượng dịch vụ. Trên cơ sở đó, kinh doanh bùng nổ, thống lĩnh thị trường và chiếm
vai trò dẫn dắt sự phát triển của ngành viễn thông tại quốc gia đó.
Với chất lượng
hạ tầng, Lumitel sử dụng chiến lược đầu tư mạnh cho vùng phủ với độ phủ 90% dân
số và đặc biệt tập trung cho 3G ngay từ khi bắt đầu cung cấp dịch vụ. Lumitel
cũng tiên phong trong việc cung cấp nhiều gói cước với ưu đãi mang tính đột phá
hơn các nhà mạng khác cho thoại, SMS và đặc biệt là truy cập Internet. Bên cạnh
đó, các khách hàng trẻ tỏ ra hưởng ứng những sản phẩm dành riêng như gói Social
truy cập Facebook và WhatApps không giới hạn, gói Sinh viên...
Người dùng muốn
trải nghiệm công nghệ viễn thông LTE mới được cung cấp bởi Lumitel có thể mua
các thiết bị di động 4G của Samsung, LG, iPhone hoặc L9501, smartphone giá phải
chăng và truy cập 4G bằng các gói cước đa dạng của Lumitel.
Cam kết mang
công nghệ tiên tiến nhất để đầu tư ra thị trường nước ngoài, nên mặc dù chưa
chính thức kinh doanh dịch vụ 4G tại Việt Nam, Viettel hiện đang đi đầu cung cấp
giới thiệu dịch vụ này tại một số thị trường của mình. Năm 2015, Viettel đã triển
khai cung cấp 4G tại Lào và Campuchia. Trong năm nay (2016), Viettel tiếp tục sẽ
triển khai đồng loạt ở hầu hết các thị trường còn lại như Timor, Peru, Haiti…
Yêu cầu:
1. Hãy phân tích ba cơ hội đối với ngành viễn
thông tại Việt Nam.
2. Cho biết ba nguy cơ lớn nhất mà các doanh
nghiệp viễn thông có thể gặp phải khi đầu tư ra nước ngoài? Lý giải?
3. Phân tích nguy cơ đe dọa của đối thủ mới với
các doanh nghiệp trong ngành viễn thông và lấy ví dụ minh họa.
4. Phân tích chiến lược của Viettel và đánh giá
triển vọng của chiến lược đó.
5. Đưa ra các đề xuất bổ sung mà bạn cho là thích
hợp để hoàn thiện chiến lược kinh doanh của
Viettel
BÀI LÀM:
1. Ba cơ hội đối với ngành viễn thông tại Việt Nam:
-
Thứ nhất, đưa doanh nghiệp viễn thông
Việt Nam ra thị trường nước ngoài. Lĩnh vực công nghệ thông tin- viễn thông
trong 10 nước ASEAN phát triển không đồng đều. Bên cạnh những quốc gia phát triển
như: Singapore, Malaysia, Thái Lan, còn có những nước có cơ sở hạ tầng hạn chế
như Campuchia, Lào hay Myanmar. Đó cũng là những nước mà Viettel lần lượt đầu
tư và nhanh chóng thay đổi diện mạo thị trường viễn thông. Tại Campuchia, mạng
Metfone( thương hiệu của Viettel tại Campuchia) lần đầu tiên phủ sóng tới 97%
dân cư, nhanh chóng trở thành mạng có thị phần số 1 tại đây. Tại Lào, hạ tầng
viễn thông tăng lên gấp 4 lần sau khi Viettel đầu tư.
Kể
từ khi gia nhập thị trường viễn thông, Mytel- thươnng hiệu viễn thông Viettel đầu
tư tại Myanmar- đã giúp phổ cập dịch vụ Internet tại đây với mật độ tăng từ 31%
(tháng 6/2018- thời điểm Mytel cung cấp dịch vụ) lên 55% ( tháng 9/2019)
Cho
đến thời điểm hiện tại, dịch vụ internet băng rộng dựa trên cáp quang và 4G đều
được Viettel phủ sóng khắp 4 quốc gia ASEAN. Đây chính là nền tảng quan trọng để
từng quốc gia phát triển hàng loạt dự án 4.0 trên nhiều lĩnh vực chính phủ điện
tử, thanh toán diện tử, giáo dục, nông nghiệp, giao thông, an ninh,... từng bước
kiến tạo xã hội số và xây dựng nền kinh tế số. Ngay tại thời điểm hiện tại,
Viettel đã thử nghiệm thành công và trình diễn 5G , ioT tại tất cae các thị trường.
Song
hành với thay đổi thị trường viễn thông- công nghệ thông tin, Viettel cũng tạo
việc làm và thu nhập ổn định cho gần 6.500 lao động người sở tại, đào tạo, chuyển
giao công nghệ, nâng cao chất lượng lao động tại 4 quốc gia đầu tư, đồng thời
đóng góp phần thúc đẩy kinh tế số khu vực ASEAN
-
Thứ hai, tạo cơ hội thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Việc vốn đầu tư cảu nước ngoài tăng mạnh cho lĩnh vực điện tử-viễn
thông góp một phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế. Việt Nam có rất nhiều lợi
thế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài như thị trường rộng lớn, nền kinh tế tăng
trưởng ổn định, nhân công rẻ, hệ thống chính trị ổn định. Vì thế trong tương
lai Việt Nam sẽ còn thu hút các doanh nghiệp, tập đoàn lớn về công nghệ thông
tin trong khu vực và trên thế giới mạnh mẽ hơn. Khi ATISA được thực thi, Việt
Nam sẽ có cơ hội để tiếp nhận nguồn đầu tư lớn về vốn và công nghệ của các tập
đoàn hàng đầu trong lĩnh vực viễn thông, từ đó có điều kiện mở rộng thị phần
trên thị trường khu vực và quốc tế, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, qua
đó có được tăng trưởng cao và bền lâu.
-
Thứ ba, giảm giá các sản phẩm viễn
thông. Đây là một trong những tiềm năng lớn của ngành điện tử viễn thông Việt Nam,
mức giá các sản phẩm được giảm do gơc bỏ hàng rào thuế quan. Đồng thời đay cũng
là động lực để phát triẻn ngành công nghiệp điện tử và sản xuất các thiết bị phục
vụ ngành viễn thông.
-
Thứ tư, Covid-19 đẩy nhanh công tác
chuyển đổi số trên cả nước. Đại dịch Covid-19 diễn ra, các sản phẩm công nghệ
thông tin- viễn thông trở thành 1 trong các phương thức cứu cánh quan trọng
hàng đầu trong công tác truy vết các ca bệnh, khắc phục các hạn chế trong thời
gian giãn cách xã hội bằng những phần mềm học trực tuyến, thanh toán online
Các
doanh nghiệp trong mọi ngành nghề đều tăng cường áp dụng những mô hình mới dựa
trên nền tảng dữ liệu và công nghệ số để tối ưu hóa vận hành cho doanh nghiệp,
từ đó gia tăng năng xuất, giảm chi phí.
Ngân
hàng nhà nước dã trình lên chính phủ cho phép thí điểm Mobile Money để thúc đẩy
chuyển đổi số quốc gia. Hơn nữa, hành vi người tiêu dùng đang dần thay đổi theo
hướng chi tiêu thanh toán không dùng tiền mặt tạo “ cơ hội vàng” cho lĩnh vực
kinh doanh trực tuyến nở rộ, trở thành mảnh đất màu mỡ cho các doanh nghiệp
công nghệ Việt Nam.
2. 3 nguy cơ lớn nhất mà các doanh nghiệp viễn thông có thể gặp phải
khi đầu tư ra nước ngoài:
Thứ nhất, sự
cạnh tranh gay gắt trên thị trường viễn thông: Có thể nói, ĐTRNN của các doanh
nghiệp viễn thông (DNVT) Việt Nam ngày càng khó khăn và gặp nhiều thách thức,
trở ngại khi tài nguyên viễn thông có xu hướng cạn dần, việc mua lại giấy phép
trở nên rất khó khăn. Sức cạnh tranh ngày càng gay gắt, doanh thu bình quân
trên mỗi thuê bao (ARPU) giảm. Các DNVT Việt Nam đang phải cạnh tranh với nhiều
nhà mạng viễn thông nổi tiếng thế giới như Orange, Vodafone, Telefonica,
SingTel. với doanh thu và kinh nghiệm hơn nhiều lần. Điển hình cho những khó
khăn này là việc Viettel không trúng thầu tại thị trường Myanmar khi tham gia
đấu thầu tại đây và phải chọn hướng tiếp cận đầu tư mới vào thị trường này. Bên
cạnh đó, Viettel chưa trả hết nợ tại 50% thị trường có đầu tư, chưa thu hồi
được vốn; số tiền lãi chuyển về nước hiện không lớn, một số thị trường có lợi
nhuận thấp. Đến thời điểm hiện tại, do mới đầu tư được 1-2 năm, nên Viettel chỉ
mới hoạt động có lãi tại 4 trong số 7 thị trường đang vận hành. Trong đó, 6 thị
trường đã đi vào kinh doanh là Campuchia, Lào, Mozambique, Haiti, Đông Timor và
Peru, mang lại 1,2 tỷ USD doanh thu cho Viettel trong năm 2014. Tính riêng 9
tháng đầu năm 2014, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh đạt 1.470 tỷ đồng, tăng
gần 400 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2013. Đặc biệt, tại Mozambique với dự án
Movitel, Viettel có lợi nhuận chỉ sau 6 tháng chính thức kinh doanh. Với hơn 2
triệu thuê bao được phát triển mới, Movitel được đánh giá là dự án đầu tư hiệu
quả nhất của Việt Nam vào châu Phi kể từ năm 2008 đến nay. Thành công của
Viettel tại Mozambique là chìa khóa để Tập đoàn mở cánh cửa ra các địa bàn lân
cận. Từ Mozambique, Viettel chính thức có thêm các thị trường Burundi,
Cameroon, Tanzania. Nhiều nhà lãnh đạo của Angola, Tanzania, Chad, Sierra Leon,
Liberia, Kenya... đã sang Mozambique tìm hiểu cách làm của Movitel và mong muốn
Viettel sẽ tới đất nước họ đầu tư. Châu Phi đã trở thành địa bàn chiến lược
trong trụ cột đầu tư nước ngoài của Viettel.
Thứ hai, khó khăn trong vấn đề cấp phép hoạt động kinh doanh
viễn thông và các rủi ro tại những thị trường mới: Theo đánh giá của các chuyên gia viễn thông, thị trường viễn
thông nhìn chung có 3 loại: thị trường chưa phát triển (với độ phủ dưới 20% dân
số); thị trường đang phát triển (với độ phủ dưới 60%); thị trường đi vào bão
hòa (với độ phủ trên 60%). Trừ thị trường chưa phát triển, thì dù ở đâu, viễn thông
cũng là lĩnh vực cạnh tranh cao và khá rủi ro. Trên thế giới có 1.500 công ty
đang nắm giữ giấy phép, nhưng chỉ 500 công ty có lãi. Thị trường dưới 20% hiện
chỉ còn Myanmar, Cuba, Triều Tiên. Trong khi đó, thị trường có độ phủ 20 - 60%
còn khá nhiều, nhất là tại châu Phi. Như vậy, để đầu tư vào các thị trường nước
ngoài, các DNVT Việt Nam không thể lựa chọn các thị trường phát triển vì hết
giấy phép trong khi các thị trường chưa phát triển thì khả năng thu hồi vốn
không cao; cạnh tranh và rủi ro lớn (vấn đề ổn định chính trị; chính sách bao
vây cấm vận, khả năng đổi mới của nền kinh tế các thị trường này.). Việc xác
định thị trường mục tiêu là các thị trường đang phát triển đang là xu hướng của
các DNVT thế giới và đây cũng sẽ là hướng đi của các DNVT Việt Nam nếu muốn mở
rộng ra ĐTRNN. Bên cạnh đó, việc triển khai đầu tư bằng hoạt động M&A
(mua-bán sáp nhập doanh nghiệp) cũng là một cửa hẹp cho các DNVT Việt Nam phải
tính toán nếu muốn thâm nhập vào các thị trường phát triển. Viettel đã phải "tìm
đường tắt“ đầu tư vào thị trường Myanma bằng kế hoạch góp 800 triệu USD để phát
triển viễn thông với một đối tác Myanmar vào cuối năm 2014. Gần đây nhất, vào
trung tuần tháng 3/2015, lãnh đạo của Viettel Global cho biết công ty sắp hoàn
tất vụ sáp nhập giữa công ty con tại Campuchia là Metfone với thương hiệu
Beeline Campuchia. Cho dù giá trị của hợp đồng do đã ký bảo mật với đối tác,
đại diện Viettel Global cho biết việc mua lại sẽ giúp Metfone gia tăng mạng
lưới tại đây. Bên cạnh đó, công ty con của Viettel cũng có cơ hội cung cấp dịch
vụ mới, chất lượng cao hơn cho người dân Campuchia. Theo lãnh đạo Viettel
Global, hai bên đã ký kết xong hợp đồng mua lại giấy phép. Dự kiến Metfone sẽ
mất vài tháng để hoàn tất quá trình kiểm kê tài sản và sáp nhập.
Thứ ba,
ARPU thấp: Một thách thức khác là tỷ lệ ARPU để thu hồi vốn đầu tư. Tại Mỹ,
mỗi thuê bao bình quân mang lại cho nhà mạng 60 USD/tháng. Trong khi đó, tại
Haiti ARPU chỉ 2,5 USD/tháng, trong khi vốn đầu tư, công sức ban đầu là giống
nhau. Nhưng có muốn vào Mỹ cũng không được vì không còn giấy phép viễn thông.
Bên cạnh đó là việc DNVT sẽ phải cạnh tranh với hàng trăm nhà mạng hùng mạnh
nhất thế giới, như Bharti Airtel, Zantel, Claro, O2, Vodafone, Telefonica,
Ame-rica Movil, Beeline, Singtel, Telecom Malaysia. Theo các chuyên gia viễn
thông, những tập đoàn viễn thông lớn của thế giới đầu tư ở Lào, Campuchia,
Haiti, Mozambique. thường quen với thị trường giàu, có doanh thu trung bình của
một thuê bao di động (ARPU) là trên 10 USD/tháng trở lên. Khi vào những thị
trường mà ARPU chỉ ở mức 10 USD/tháng, thậm chí dưới 5 USD/tháng, họ sẽ gặp khó
khăn lớn. Chẳng hạn, khi đầu tư vào Haiti, nhiều DNVT khác như Singtel, Telecom
Malaysia, Vodafone cũng đã tiếp cận thị trường này, nhưng họ không thể triển
khai được vì không cử được người sang do những chuyên gia của họ không chấp
nhận được mức sống ở đó. Bên cạnh đó, các công ty viễn thông lớn thường sử dụng
dịch vụ thuê ngoài (Outsourcing) với chi phí đắt đỏ, thu hồi vốn chậm, nhất là
thị trường đang phát triển và có tỷ lệ ARPU thấp.
Thứ tư, nhân lực chuẩn bị cho ĐTRNN: Một thách thức khác cũng cần nêu
ra đó là chuẩn bị nhân lực cho việc ĐTRNN của các DNVT Việt Nam. Với đòi hỏi
phải am hiểu địa bàn đầu tư; phong tục, tập quán; môi trường pháp luật và đầu
tư... thì rõ ràng việc chuẩn bị nhân lực để đưa ra nước ngoài từ giai đoạn tìm
hiểu đến giai đoạn triển khai là một thách thức không dễ vượt qua của các DNVT
Việt Nam so với các đối thủ là các DNVT thế giới. Những bài học về thành công
và thất bại của các DNVT Việt Nam suốt thời gian qua cần được đúc rút; chia sẻ
để cùng hướng đến sự thành công.
3. Nguy cơ tiềm ẩn:
- Các đối thủ liên tiếp đưa ra các
chiến lược giá rẻ, chiến lược đa dạng hóa sản phẩm với các dịch vụ giá trị gia
tăng mới như gói cước có giá hấp dẫn cho trả trước, trả sau, các dịch vụ giá
trị gia tăng trên nền tin nhắn SMS (ringtunes, tải hình ảnh, âm thanh qua soạn
tin nhắn SMS...)
- Cuộc chạy đua các chương trình
khuyến mãi: rất nhiều các chính sách khuyến mãi như tặng 50% giá trị thẻ nạp,
hòa mạng mới được tặng thêm tiền, chính sách giảm giá cước giờ thấp điểm...
được các nhà mạng tận dụng triệt để và dai dẳng.
- Đặc biệt từ khi ông lớn trên
trường quốc tế là Beeline thâm nhập vào Việt Nam 2009 với giá cước Big zero
siêu rẻ. Thì các nhà mạng ở Việt Nam
không thể không chạy đua giảm giá cước, khuyến mãi và bám đuổi nhau.
-VD: Công ty Vinaphone là một công
ty thành viên thuộc tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam là công ty nhà nước
do nhà nước đầu tư và thành lập. Cùng với Mobifone , Vinaphone là công ty cung
cấp dịch vụ viễn thông di động hoạt động trên băng tần GSM, phủ sóng toàn quốc
61/61 tình thành. Vinaphone từng giữ vị trí số một trong lĩnh vực di động trước
khi tham gia thị trường viễn thông nhưng hiện nay chỉ đứng vị trí số 3 nếu tính
tất cả từ mặt doanh thu đến hiệu quả và năng suất mạng lưới. Với cùng 1 điều kiện môi trường
như nhau thì rõ ràng doanh thu và nặng lực mạng lưới của Vinaphone vẫn kém
Viettel và Mobifone. Một vấn đề cập là dự án BCCS liên quan hệ thống tính cước
và khách hàng tập trung của VNPT đã được khởi động từ chục năm trước đây, trải
qua rất nhiều thăng trầm nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được công tác chăm
sóc khách hàng, ghép cước các dịch vụ cố định, di động, ADSI gặp không ít khó
khăn, các giải pháp đều mang tính chắp vá. Cuối những tháng đầu năm 2012, nhiều
khách hàng đến đóng tiền cước mà không được, xếp hàng cả ngày, máy treo hệ
thống chậm... khiến mọi khách hàng bên Vinaphone chuyển sang sử dụng các dịch
vụ của những doanh nghiệp viễn thông khác và mới hơn. Vừa có hệ thống công nghệ
thông tin đổi mới hơn, giá hấp dẫn hơn lại đáp ứng đầy đủ yêu cầu khó tính của
khách hàng mới.
Vinaphone mất thị phần, phải chia
sẻ miếng bánh thị phần với các đối thủ cạnh tranh như Viettel, Mobifone,
G-tel... khách hàng sẽ so sánh dịch vụ của các nhà cùng cấp khác ngoài
Vinaphone từ đó lòng tin dành cho thương hiệu giảm.
Do suy giảm thị phần nên doanh thu
và lợi nhuận của Vinaphone theo đó cũng sẽ thấp. Gây dựng thương hiệu với khách
hàng mới, khách hàng tiềm năng sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Đầu tư từ phía nước ngoài sẽ bị
san sẻ với đối thủ trong ngành, điển hình như Apple là người được lợi từ cạnh
trang trong phân phối Iphone giữa Vinaphone và Viettel
Nguy cơ do việc chạy đua về giá và
các chương trình khuyến mãi ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu thuần, lượng
khách hàng ảo sẽ tăng lên gây khó khăn cho quản lý thuê bao
4. Chiến lược phát triển của Viettel
- Ngay
từ đầu khi mới tham gia vào thị trường và cung cấp dịch vụ viễn thông
(năm 2000), Viettel đã xác định cho mình hoạt động nghiên cứu và phát triển
là yếu tố quan trọng và then chốt để giúp thương hiệu liên tục đổi
mới, liên tục phát triển.
Để thực
hiện tốt nhiệm vụ làm chủ công nghệ, hoạt động nghiên cứu sản xuất, Viettel đã
lựa chọn cho mình phương thức tự làm là chính, kết hợp với việc chuyển giao
công nghệ từ các đối tác sở hữu công nghệ thành phần và hợp tác với các chuyên
gia; tổ chức các bộ máy thực hiện việc nghiên cứu tại nước ngoài, sau đó chuyển
kết quả của quá trình nghiên cứu về Việt Nam dưới hình thức sản phẩm cụ thể và
các trí thức được kết tinh.
- Bám sát theo chính sách phát triển của Chính phủ
trong ngành Bưu Chính — Viễn Thông: Mục tiêu của Tập đoàn cũng như Chính Phủ đó
là đưa Việt Nam đứng thứ 60 trong bảng xếp hạng ITU và CNTT. tổng doanh thu
lĩnh vực CNTT chiếm tỷ trọng 17 - 20% trong GDP; Tốc độ tăng trưởng trung bình
hàng năm gắp từ 2 - 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP, Việt Nam phải thực hiện tốt 6
nhiệm vụ chủ yếu đó là:
Tiếp tục phát triển và hoàn thiện cơ sở của toàn
bộ hạ tầng viễn thông;
+ Đưa điện thoại, thiết bị nghe nhìn và các thiết bị
máy tính đến hộ gia đình;
+ Phát triển ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước,
phục vụ các nhu đời sống xã hội của người dân;
+ Phát triển công nghiệp CNTT;
+ Phát triển nguồn nhân lực;
+ Xây
dựng các tập đoàn CNTT có có thể vươn ra toàn thế giới.
- CNTT là lĩnh vực đang phát triển không ngừng tại
Việt Nam và
các nước khác trên thế giới. Vì vậy, ta không thể phủ nhận rằng đây chính là 1
cơ hội tốt để Viettel đẩy mạnh tốc độ phát triển của mình. Với nguồn vốn chủ sở
hữu hơn 500.000 tỷ đồng và đội ngũ nhân viên tài năng, Viettel có thể ngày càng
nhanh chóng cập nhật các công hội cho Viettel để vượt xa các đối thủ cạnh tranh
của mình, hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường viễn thông đây tiềm năng này.
- Trong chiến lược kinh doanh của Viettel cũng tập trung vào việc đầu tư ra nước ngoài. Vì
vậy, Viettel đã trở thành cái tên tiêu biểu nhất trong năm 2010 về đầu tư ra
nước ngoài. Các quốc gia như Lào, Campuchia, Myanmar là một cơ hội cho Viettel,
nhất là khi các rào cản về luật pháp, thuế quan, văn hóa cũng dần dẫn giảm đi,
do quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Trong năm 2010, Viettel đã bắt đầu tiến
hành mở rộng thị trường sang Lào và Campuchia. Điều này chứng tỏ cơ hội để
Viettel khẳng định mình trên sân nhà cũng như sân chơi quốc tế còn rất nhiều.
Vì vậy phương thức thâm nhập thị trường quốc tế của Viettel được quan tâm và
chú trọng để thực hiện.
- Triết lý trong chiến lược kinh
doanh của Viettel bao gồm: Tiên phong, đột phá trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ
hiện đại, sáng tạo từ đó có thể đưa ra các giải pháp để tạo ra các sản phẩm, dịch
vụ mới với chất lượng cao cùng giá cước phù hợp có thể đáp ứng nhu cầu và quyền
lựa chọn của khách hàng. Luôn thể hiện quan tâm, tinh thần lắng nghe khách hàng
của mình như những cá thể riêng biệt để cùng khách hàng của mình tạo ra các sản
phẩm, dịch vụ ngày càng chất lượng. Đem những gì tốt nhất của Tập đoàn Viettel
ra nước ngoài. Vì vậy chiến lược CRM của Viettel đã phát huy tối đa khi
"tiếp cận" được với các khách hàng hiệu quả và có hệ thống nhất định.
- Là Tập
đoàn hoạt động trong nhiều lĩnh vực thì cơ cấu chủng loại của sản phẩm đa dạng
là điều không khó hiểu. Cũng bởi như thế mà Viettel có cho mình khả năng cạnh
tranh ở thị trường rộng lớn cả trong và ngoài nước. Đồng thời, các khách hàng
của Viettel luôn luôn quan tâm đến các sản phẩm và dịch vụ. Do đó, trong chiến
lược kinh doanh của Viettel luôn có những chiến lược phát triển sản phẩm để phù
hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Đối với
chất lượng: Chất lượng được Tập đoàn đo từ đầu vào cho đến đầu ra, do đó trước
tiên cần phải đảm bảo được đầu vào đạt đúng tiêu chuẩn, dịch vụ phải tốt nhất
với công nghệ hiện đại và mới nhất.
- Chiến lược giá: Các quyết định về giá được phối hợp
cùng những quyết định về mẫu mã, phân phối của sản phẩm để hình thành được một
chiến dịch marketing nhất quán và có hiệu quả cao. Nhờ chiến lược định giá thấp
rất phù hợp, giá cả của các dịch vụ và các sản phẩm mà Viettel cung cấp đều cực
kì hấp dẫn giúp Viettel có thể cạnh tranh được các đối thủ lớn.
Doanh
nghiệp có giá cho mình cước cạnh tranh nhất. Những gói cước của Viettel cung
cấp thật sự hấp dẫn và phù hợp với nhiều phân khúc khách hàng. Những gói cước
khác biệt mà Viettel đã sở hữu thì không một doanh nghiệp viễn thông nào có.
- Chiến lược phân phối: Với nỗ lực lắp đặt được các
trạm sóng khắp toàn quốc cùng với cách tiếp cận khách hàng thì sự khác biệt so
với các đối thủ của Viettel đã giúp thương hiệu khẳng định được vị trí số 1 của
mình trong thị trường viễn thông. Hiện Viettel đang là doanh nghiệp có được số
lượng thuê bao di động lớn nhất cả nước : Khi số lượng thuê bao đã lên tới hơn
22 triệu thuê bao, chiếm tổng số trên 42% thị phần của thiết bị di động.
Viettel
cũng đang trở thành doanh nghiệp có độ phủ sóng rộng nhất: Hiện nay Viettel sở
hữu cho mình khoảng 12.000 trạm thu phát sóng, không chỉ phủ sóng tại các thành
phố mà đã phủ về các vùng nông thôn, vùng hải đảo xa xôi hay là vùng núi hiểm
trở.
- Chiến lược xúc tiến: Viettel luôn biết cách để đưa ra các chương trình quảng cáo và
khuyến mãi đúng thời điểm, đúng đối tượng để tăng việc kích thích người tiêu
dùng sử dụng dịch vụ, sản phẩm của mình nhiều hơn nữa. Ngoài ra, Viettel còn có
các chương trình ưu đãi khác như :
·
Ưu đãi về dịch vụ: khách hàng VIP được phục vụ riêng tại các siêu
thị Viettel, miễn phí đặt cọc Roaming…
·
Ưu đãi về chi phí: Khách hàng có thể thực hiện đổi điểm thành tiền
hoặc miễn giảm các cước phí khi sử dụng gói dịch vụ, nhận quà sinh nhật
hàng năm..v…v.
Bên cạnh
đó, Viettel cũng được biết tới là doanh nghiệp có những nhiều chương trình gắn
liền với lợi ích to lớn của xã hội hoặc các chính sách nhân đạo, quan tâm đặc
biệt đến người nghèo và trẻ em nhất. Cùng với quan điểm kinh doanh có trách
nhiệm với xã hội, Viettel đã giúp cho hàng triệu triệu học sinh, sinh viên và
giáo viên cùng bộ phận những người có vai trò quan trọng với đất nước có được
cơ hội tiếp xúc với khoa học công nghệ, nền tri thức hiện đại.
Ngoài
ra, hàng năm, Viettel đã chi ra hàng tỷ đồng để ủng hộ người nghèo với chương trình
đặc biệt tổ chức vào cuối năm như: chương trình “nối vòng tay lớn”. Viettel còn
góp sức chung tay để gây quỹ cho chương trình “Trái tim cho em” với mục đích
giúp cho các em bị bệnh tim bẩm sinh có cơ hội được phẫu thuật để có một trái
tim khỏe mạnh hơn.
- Đánh giá: đến nay, Viettel Telecom được cho là đã ghi được những
dấu ấn quan trọng và một vị thế lớn trên thị trường cũng như trong sự lựa chọn
của khách hàng:
Dịch vụ điện thoại đường dài trong nước và quốc tế 178 đã triển
khai khắp 64/64 tỉnh thành cả nước và hầu hết các quốc gia, các vùng lãnh thổ
trên thế giới. Dịch vụ điện thoại cố định, dịch vụ Internet... phổ cập rộng rãi
trên mọi tầng lớp dân cư, vùng miền đất nước.
Dịch vụ điện thoại di động vượt con số 20 triệu thuê bao, trở
thành nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động số 1 tại Việt Nam
Hiện nay sau 30 năm thành lập và phát triển, với những chiến lược
kinh doanh được thực hiện, sự nỗ lực đem đến sự tiện ích trong từng dịch vụ của
mình, đến nay Viettel đã trở thành 1 trong 50 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất
thế giới.
Nhìn nhận nguyên nhân thành công của Viettel, Thủ tướng cho rằng,
đó là văn hóa và tình thần Viettel, chú trọng nghiên cứu và phát triển, phát
triển nguồn lực, nhát là nhân lực trình độ cao, thu hút, đào tạo được nhiều
nhân tài, chuyên gia giỏi, có bước đi phù hợp.
5. Đề xuất bổ sung thích hợp cho chiến lược kinh doanh của Viettel:
Giai đoạn 2021-2025, Viettel định hướng tiếp tục vươn
ra thị trường quốc tế để hiện thực hóa trở thành một Tập đoàn công nghệ kinh
doanh toàn cầu. Theo đó, Viettel vẫn tiếp tục hoạt động đầu tư kinh doanh tại
các dự án hiện tại trên cơ sở vốn ĐTRNN đã được đăng ký, nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các công ty thị trường nước ngoài bằng các giải pháp tài
chính và quản trị hiện đại, đồng thời đẩy mạnh việc đưa các sản phẩm, dịch vụ,
nhất là các sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao của Viettel ra thị trường quốc tế.
Khi có cơ hội đầu tư thị trường mới, Viettel xem xét
đầu tư dưới hình thức mua lại cổ phần công ty đã có sẵn tại các quốc gia và
tham gia điều hành sản xuất kinh doanh, không đầu tư xây dựng từ đầu. Đồng
thời, Viettel sẽ thực hiện tái cấu trúc, giảm vốn/thoái vốn tại một số công ty
khi có cơ hội để hiện thực hóa lợi nhuận, tối ưu danh mục đầu tư, tạo nguồn vốn
để tiếp tục mở rộng lĩnh vực đầu tư quốc tế cho giai đoạn tiếp theo.
Ngoài việc thu hồi vốn thông qua cổ tức, gốc và lãi từ
cho vay, giá trị đầu tư của Viettel tại các dự án đầu tư tại nước ngoài còn nằm
ở tài sản như thiết bị hạ tầng, giấy phép tần số, thuê bao... và mạng lưới, mô hình
kinh doanh của công ty thị trường. Viettel có thể thu hồi vốn từ việc chuyển
nhượng cổ phần, vốn góp tại các công ty này. Dự kiến đến hết 2025, Viettel cơ
bản thu hồi toàn bộ vốn ĐTRNN, trong đó thu hồi vốn thông qua việc thoái toàn
bộ hoặc một phần cổ phần/vốn góp tại một số dự án đầu tư tại nước ngoài là giải
pháp căn bản.
Giải pháp góp phần thực hiện thành công chiến lược
phát triển giai đoạn tới
Để thực hiện thành công chiến lược phát triển giai
đoạn tới, giữ vững vai trò là Tập đoàn kinh tế hàng đầu của đất nước và kinh
doanh toàn cầu, Viettel đề xuất một số kiến nghị về cơ chế, chính sách gồm:
Thứ nhất, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan kiên định ủng hộ,
hỗ trợ hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam nói chung, Viettel nói riêng;
và cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách, quan điểm thúc đẩy, quản lý, đánh
giá, tăng cường xúc tiến, đàm phán các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
với các nước mà Viettel và các DN Viettel đã đầu tư.
Thứ hai, về việc đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư nước ngoài:
Hoạt động đầu tư nói chung và ĐTRNN nói riêng luôn tiềm ẩn những rủi ro, khó
khăn, thách thức không như dự đoán do chịu nhiều tác động của các yếu tố khách
quan và chủ quan. Viettel kiến nghị nhìn nhận đánh giá hiệu quả dự án đầu tư,
bảo toàn và phát triển vốn đầu tư trong hoạt động ĐTRNN của Viettel dựa trên
nguyên tắc đánh giá tổng danh mục đầu tư, đánh giá cả giai đoạn đầu tư, không
đánh giá hàng năm và không tách riêng từng khoản đầu tư.
Thứ ba, đối với các thị trường đang có các vướng mắc pháp lý và
các rủi ro pháp lý khác có thể xảy ra trong tương lai: Viettel đã, đang và sẽ
thực hiện giải quyết các rủi ro một cách chuyên nghiệp, theo thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên. để tăng sức ảnh hưởng và thúc đẩy việc xử lý các vướng mắc nhanh và
hiệu quả nhất, Viettel đề xuất Bộ Quốc phòng và các bộ ngành liên quan báo cáo
đề xuất cấp cao nhất của Nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng hỗ trợ trao đổi
song phương đồng cấp.
Thứ tư, riêng về cơ chế thoái vốn ĐTRNN Viettel xin cụ thể hóa
một số khó khăn vướng mắc và đề xuất như sau:
Thời gian qua, Viettel đã xúc tiến các thủ tục ban đầu
để thoái vốn đầu tư tại một số dự án nước ngoài. Trong quá trình thực hiện,
Viettel nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc về cơ chế, quy định pháp luật,
gây chậm chễ, ảnh hưởng cơ hội thoái vốn của DN tại dự án nước ngoài.
Về quy định, hiện tại có 04 văn bản hướng dẫn về thoái
vốn đầu tư ra ngoài DN bao gồm: Luật số 69/2014/QH13 (Luật Quản lý, sử dụng vốn
Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN 2014), Nghị định số
91/2015/NĐ-CP, Nghị định số 32/2018/ NĐ-CP và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP.
Luật số 69/2014 nêu các nguyên tắc về thoái vốn đầu tư
ra ngoài DN, trong đó bao gồm: (1) việc thoái vốn tại công ty TNHH, cổ phần
chưa niêm yết phải thực hiện theo thứ tự Đấu giá công khai, Chào hàng cạnh
tranh (bản chất tương tự Đấu giá công khai) rồi tới Thỏa thuận; (2) việc thoái
vốn phải “đảm bảo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch.”
Các Nghị định 91/2015/NĐ-CP, Nghị định 32/2018/NĐ-CP
và Nghị định 140/2020/NĐ-CP quy định về trình tự, thủ tục và các nội dung liên
quan đến việc bán đấu giá cổ phần bao gồm định giá, thuê tổ chức đấu giá...
Từ thực tế triển khai thoái vốn tại nước ngoài,
Viettel đánh giá như sau:
Một là, về cơ bản, pháp luật Việt Nam hiện chưa có văn bản quy
định về hình thức, cơ chế thoái vốn tại các dự án nước ngoài.
Các bước quy trình, thủ tục thực hiện thoái vốn cổ
phần/phần vốn góp quy định tại Nghị định số 91/2015/NĐ-CP, Nghị định số
32/2018/NĐ-CP và Nghị định số 140/2020/NĐ-CP chỉ có thể áp dụng với các giao
dịch chuyển nhượng cổ phần thực hiện tại Việt Nam vì quy định các bước thực
hiện, các cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thực hiện chuyển nhượng cổ phần
là các cơ quan, tổ chức thành lập và hoạt động tại Việt Nam, không tương thích
và phù hợp với việc chuyển nhượng cổ phần của DN Việt Nam ở nước ngoài. Đơn cử
ví dụ thủ tục đấu giá thực hiện thông qua Sở Giao dịch chứng khoán không thể áp
dụng đối với các khoản đầu tư tại nước ngoài.
Hai là, chưa có văn bản nào quy định về nguyên tắc, quy trình,
thủ tục thực hiện thoái các “vốn cam kết khác của chủ sở hữu”
Đặc điểm giá trị đầu tư các dự án nước ngoài của
Viettel là giá trị lớn (dự án viễn thông từ 500tr- 1 tỷ USD/dự án) và thường
rơi vào các năm đầu (khoảng 50% trong 2 năm đầu tiên). Trong giai đoạn đầu hoạt
động khi chưa huy động được nguồn vốn vay ngân hàng do kết quả kinh doanh chưa
đáp ứng điều kiện cho vay, nguồn vốn đầu tư giai đoạn đầu chủ yếu được đối ứng
bằng nguồn vốn cam kết từ chủ sở hữu. Ngoài phần vốn điều lệ (thường để nhỏ
hoặc tối thiểu theo quy định của pháp luật), còn có phần vốn cho vay cam kết từ
chủ sở hữu. Đây là hình thức vốn học hỏi từ kinh nghiệm thông lệ của nhiều nhà
đầu tư đa quốc gia khác trên thế giới. Hình thức cơ cấu vốn đặc biệt này đều
được Viettel báo cáo xin Thủ tướng Chính phủ chấp thuận theo quy định về Quản
lý ngoại hối và được quy định cụ thể hạn mức trong Giấy chứng nhận Đăng ký
ĐTRNN của từng dự án theo quy định tại Luật Đầu tư.
Tuy nhiên, các quy trình hiện tại mới chỉ áp dụng cho
các hình thức bán đấu giá cổ phần/vốn góp, chưa có hướng dẫn đối với nội dung
bán các phần vốn khác của chủ đầu tư ví dụ như vốn cổ đông cho vay Công ty tại
nước ngoài.
Ba là, thứ tự áp dụng các hình thức thoái vốn chưa phù hợp với các dự án đầu tư
nước ngoài.
Đối với các dự án tại nước ngoài, ngoài mục đích đầu
tư, kinh doanh, dự án còn đóng vai trò trong quan hệ ngoại giao giữa 2 nước.
Việc công bố thông tin công khai, rộng rãi ra công chúng về việc đấu giá thoái
vốn của nhà đầu tư tại dự án nước ngoài sẽ tạo ra hiệu ứng không tốt đối với
quan hệ của công ty tại nước ngoài với chính quyền nước sở tại và tác động đến
quan hệ ngoại giao giữa 2 nước. Đặc biệt, trong trường hợp đấu giá thoái vốn
không thành công, DN tiếp tục hoạt động kinh doanh tại nước sở tại. Nội dung
này đã từng được Bộ Ngoại giao khẳng định trong một văn bản góp ý đối với một
Phương án thoái vốn tại nước ngoài do Viettel đề xuất. Các rủi ro này chưa kể
đến việc đối thủ kinh doanh tại thị trường tận dụng cơ hội để tiếp cận thông
tin nhạy cảm của DN để tạo lợi thế cạnh tranh cho mình.
Do vậy, nhà đầu tư ưu tiên không công bố thông tin
thoái vốn rộng rãi ra công chúng trước khi thoái vốn thành công. Vì lý do này,
việc thoái vốn phải bắt đầu từ hình thức Đấu giá công khai đối với dự án tại
nước ngoài theo đánh giá của Viettel là không phù hợp.
Theo pháp luật về Đầu tư, khoản 2 Điều 64 Luật Đầu tư
2020 quy định: “Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt động
của dự án đầu tư tại nước ngoài theo quy định của pháp luật nước tiếp nhận đầu
tư….”. Tại các nước Viettel đầu tư, pháp luật tại nước sở tại không giới hạn
hình thức nhà đầu tư được thoái vốn.
Do việc mua bán sáp nhập DN quốc tế đang hoạt động là
phức tạp, giá trị thường lớn, cần bảo mật thông tin, nên theo thông lệ quốc tế,
các bên tham gia (cả bên mua và bên bán) đều thông qua các đơn vị tư vấn chuyên
nghiệp để thực hiện. Các đơn vị tư vấn này thường là các ngân hàng đầu tư, công
ty tư vấn tài chính... có mạng lưới các nhà đầu tư trong các lĩnh vực rộng khắp
trên thế giới. Theo đó, toàn bộ quy trình do đơn vị tư vấn chuyên nghiệp chủ
trì và vẫn hướng tới nguyên tắc thị trường, cạnh tranh, minh bạch: có định giá
độc lập, chuẩn bị bộ thông tin thống nhất để công bố đến các nhà đầu tư; Đơn vị
tư vấn là đầu mối tìm kiếm nhà đầu tư tiềm năng và cung cấp thông tin đến các nhà
đầu tư (thay vì công bố rộng rãi phương tiện đại chúng), việc tiếp nhận và đánh
giá các bản chào của các nhà đầu tư thực hiện theo tiêu chí chung….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét