PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề 20211
Bài làm
Câu 1: Phân tích các đặc trưng của
pháp luật?
Đặc trưng (thuộc tính) của pháp luật
là những dấu hiệu riêng có của pháp luật để phân biệt pháp luật với các quy
phạm xã hội khác.
Những đặc trưng của pháp luật thể
hiện ưu thế riêng của pháp luật so với các loại quy tắc điều chỉnh hành vi của
con người trong xã hội. Gồm bốn đặc trưng sau:
Một là, Pháp luật có tính quyền lực
nhà nước:
Trong số các loại quy phạm xã hội
thì chỉ có pháp luật mới được hình thành bằng con đường nhà nước, tức do nhà
nước ban hành và cũng chỉ có pháp luật mới được nhà nước đảm bảo thực hiện.
Nhà nước là chủ thể duy nhất trong
xã hội có quyền ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Bằng nhiều hình thức khác
nhau, Nhà nước trực tiếp ban hành hoặc thừa nhận các quy tắc sẵn có trong xã
hội và xây nên hệ thống pháp luật.
Thời kỳ các nhà nước sơ khai, pháp
luật ra đời chủ yếu từ các quy tắc, tập quán có sẵn trong xã hội, được Nhà nước
thừa nhận và nâng lên thành các quy phạm pháp luật có giá trị bắt buộc cao hơn.
Ở các nhà nước hiện đại, hệ thống
pháp luật do những cơ quan chuyên trách ban hành (Quốc hội, Nghị viện) nên ngày
càng được hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, được sắp xếp theo một trật tự
nhất định về giá trị pháp lý, làm cơ sở cho các quan hệ xã hội cơ bản. Trong
khi đó, các loại quy phạm xã hội khác được hình thành bởi các nhóm người trong
phạm vi hẹp (như các tín điều tôn giáo, quy chế của tổ chức, đoàn thể) hoặc do
nhiều thế hệ di truyền lại (như đạo đức, tập quán) nên không có tính hệ thống,
chuẩn xác về nội dung và hình thức thể hiện.
Khi được Nhà nước ban hành và sử
dụng làm công cụ chính yếu để quản lý xã hội, pháp luật được nhà nước đảm bảo
thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước, từ tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục, thuyết phục, động viên, khen thưởng, tổ chức thực hiện cho đến
áp dụng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Khác với pháp luật, các quy tắc xã
hội thông thường không có tính bắt buộc cao, chủ yếu được thực hiện bởi thói
quen và sự tự giác của các chủ thể, biện pháp xử lý đối với hành vi trái quy tắc
xã hội cũng chỉ mang tính chất răn đe, cảnh báo, lên án bởi cộng đồng và dư
luận xã hội nhằm tác động đến lương tâm, tự trọng của các chủ thể.
Hai là, Pháp luật có tính quy phạm
phổ biến:
Trước hết, ta cần hiểu “quy phạm” là
gì? Theo từ điển Tiếng Việt có nghĩa là khuôn mẫu, chuẩn mực hay mực thước. Các
quy định của pháp luật chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho hành
vi, xử sự của mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Căn cứ vào các quy định của
pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm gì, không
được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh
cụ thể.
Ba là, Pháp luật có tính thống nhất:
Hệ thống pháp luật có tính thống
nhất được hiểu là một hệ thống pháp luật trong đó tổng thể các quy phạm pháp
luật có mối liên hệ nội tại thống nhất và chặt chẽ với nhau, được phân định
thành các chế định pháp luật, ngành luật và được thể hiện trong các hình thức
pháp luật.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chủ
yếu được thể hiện trong một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định.
Tính thống nhất được đặt ra đối với
cả hệ thống pháp luật cũng như đối với từng văn bản quy phạm pháp luật và từng
quy phạm pháp luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm nhiều loại văn
bản khác nhau theo thứ bậc hiệu lực pháp lý.
Tính thống nhất của hệ thống pháp
luật đặt ra yêu cầu văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phải phù hợp
với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn; quy phạm pháp luật do cơ quan cấp dưới
ban hành phải phù hợp với quy phạm pháp luật do cơ quan cấp trên ban hành và
đều phải phù hợp với quy định của Hiến pháp. Như vậy, tính thống nhất của hệ thống
pháp luật đòi hỏi nội dung chính sách trong toàn hệ thống pháp luật, trong các
văn bản quy phạm pháp luật và các quy phạm pháp luật phải nhất quán, phù hợp,
không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
Bốn là, Pháp luật có tính xác định
về hình thức:
Phong tục tập quán, đạo đức không có
tính xác định về mặt hình thức vì chúng tồn tại dưới dạng bất thành văn, thường
lưu truyền từ đời này sang đời khác theo hình thức truyền miệng. Trái lại, pháp
luật luôn có tính xác định về mặt hình thức, bởi pháp luật thường được thể hiện
trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn
bản quy phạm pháp luật.
Các văn bản quy phạm pháp luật lại
có những hình thức cụ thể như Hiến pháp, luật, nghị định, nghị quyết... Mỗi
loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ
tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.
Câu 2:
Mối quan hệ giữa Pháp luật với Nhà
nước:
Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời
của nhà nước, những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhà nước cũng là những
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy
chưa có nhà nước nên cũng chưa có pháp luật, tuy nhiên xã hội bấy giờ đã có các
quy phạm xã hội hay các quy tắc xử sự tồn tại dưới dạng phong tục tập quán, đạo
đức, các tín điều tôn giáo để định hướng cho xử sự của mọi người.
Khi nhà nước xuất hiện, để quản lý
xã hội có giai cấp, nhà nước phải ban hành pháp luật.
Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính
trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ, dân cư và chính quyền độc lập, có khả
năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định trong
phạm vi lãnh thổ của mình.
Còn Pháp luật là hệ thống các quy
tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ trong xã hội.
Giữa Nhà nước và Pháp luật có mối
quan hệ mật thiết, khăng khít, không thể tách rời nhau. Là hai thành tố của
thượng tầng chính trị - pháp lý, đều có chung nguồn gốc phát sinh và phát
triển.
Nhà nước và Pháp luật luôn có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Thể hiện ở sự tác động qua lại giữa Nhà nước và
Pháp luật.
Chúng vừa có sự phụ thuộc lẫn nhau
vừa có sự độc lập tương đối với nhau. Những điểm này được thể hiện trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước và trong xây dựng và thực thi Pháp luật:
Bộ máy Nhà nước sử dụng Pháp luật là công cụ đắc lực để quản lý xã hội, Pháp
luật lại cần đến bộ máy Nhà nước để bảo vệ và đảm bảo thực thi Pháp luật.
Sự tác động qua lại lẫn nhau của cả
Nhà nước và Pháp luật, có thể là tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ này hay mức
độ khác.
Cả Nhà nước và Pháp luật đều có cho
mình những tiền đề xã hội giống nhau.
Mối quan hệ giữa Pháp luật và kinh
tế:
Pháp luật và kinh tế là quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong mối quan hệ này, pháp luật có
tính độc lập tương đối. Một mặt pháp luật phụ thuộc vào kinh tế; mặt khác pháp
luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế.Sự phụ thuộc
của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ:
Cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế
quyết định thành phần cơ cấu các ngành luật.
Tính chất nội dung của các quan hệ
kinh tế, của cơ chế kinh tế quyết định tính chất, nội dung của quan hệ pháp
luật, phương pháp điều chỉnh của pháp luật.
Chế độ kinh tế, thành phần kinh tế
tác động quyết định tới sự hình thành, tồn tại các cơ quan, tổ chức và thể chế
pháp lý, phương thức hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và thủ tục pháp
lý.
Mặt khác pháp luật cũng có sự tác
động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế.
Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của
giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ
phát triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến bộ và có tác động tích
cực.
Ngược lại khi pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời, muốn dung pháp luật để duy trì các quan
hệ kinh tế đã lạc hậu không còn
phù hợp nữa thì pháp luật mang nội
dung lạc hậu và có tác dụng tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của kinh tế xã
hội.Để khắc phục nhược điểm đó, các nhà nước tư sản đã nhiều lần phải điều
chỉnh, phải thay đổi đường lối để đảm bảo cho pháp luật có thể thích ứng được
với tình hình.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện
ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, phản ánh đúng đắn trình độ phát triển của chế độ kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Cho nên pháp luật xã hội chủ nghĩa có nội dung tiến bộ và giữ vai
trò tích cực trong việc tác động tới quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Pháp luật còn phản ánh trình độ phát
triển kinh tế tại một đất nước.
Ví dụ như:
Thời xã hội phong kiến, kinh tế theo
hình thức sản xuất phong kiến hình thành nên Nhà nước phong kiến và pháp luật
thời phong kiến. Sau đó, nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa phát triển hình
thành nên quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, để đáp ứng nhu cầu đó, Nhà nước tư
bản chủ nghĩa với những quy định, khuôn khổ khác, tiến bộ hơn hình thành và
thay thế cho Nhà nước phong kiến. Đó là minh chứng cho việc kinh tế tác động
đến pháp luật.
Ngược lại, trong thời đại hiện nay,
việc pháp luật tác động đến kinh tế có thể dễ dàng nhận thấy. Trong lĩnh vực
Bất động sản, với chính sách phát triển kính tế tại các đảo hướng tới trở thành
đặc khu kinh tế, đơn cử như Phú Quốc. Với định hướng trở thành đặc khu kinh tế
giúp Phú Quốc thu hút nguồn đầu tư khủng, giá nhà đất tăng vọt. Từ đây có thể
thấy, Pháp luật có tác động vô cùng lớn đến sự phát triển của kinh tế.
Trong thời đại tư bản chủ nghĩa, Nhà
nước tư bản ban hành các chính sách mở rộng giao thương buôn bán giúp hoạt động
kinh tế, thương mại phát triển mạnh mẽ. Ngược lại, một số nước phong kiến có
chính sách đóng cửa, tự cung tự cấp khiến cho hoạt động kinh tế ít phát triển.
Mối quan hệ giữa Pháp luật và đạo
đức:
Đạo đức và pháp luật có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Một xã hội có nền tảng đạo
đức tốt sẽ là cơ sở để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và tự giác. Mặt
khác, pháp luật nghiêm sẽ hỗ trợ đắc lực cho việc giữ gìn, phát triển nền đạo
đức xã hội tốt đẹp!
Ngày nay, cùng với sự phát triển
vượt bậc của xã hội trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, khoa học,
pháp luật... thì mức độ đan xen, tác động qua lại giữa Pháp luật và đạo đức
ngày càng có những sự ảnh hưởng lẫn nhau đúng như quan niệm của Đảng ta
"Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo
đức".
Tác động của Pháp luật đến đạo đức:
Pháp luật là công cụ để truyền bá những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn
mực đạo đức chính thống hay của giai cấp thống trị hay lực lượng cầm quyền. Nhờ
được luật hóa, những tư tưởng, quan điểm đạo đức chính thống của giai cấp thống
trị được truyền bá một cách nhanh chóng và rộng khắp trên toàn xã hội, trở
thành những chuẩn mực mang tính bắt buộc chung đối với tất cả mọi người.
Bằng việc ghi nhận những quan niệm,
tư tưởng, chuẩn mực đạo đức trong pháp luật, pháp luật góp phần củng cố, giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức xã hội, hỗ trợ, bố sung cho đạo đức, đảm
bảo cho chúng được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế.
Pháp luật loại trừ những quan niệm,
tư tưởng, đạo đức lạc hậu, trái với ý chí nhà nước, lợi ích của lực lượng cầm
quyền, lợi ích chung của cộng đồng cũng như tiến bộ xã hội (Pháp luật nghiêm
cấm việc tuyên truyền những tư tưởng đạo đức đó, cấm những hành vi thể hiện các
quan niệm, chuấn mực đạo đức đó; bắt buộc thực hiện những hành vi thể hiện quan
niệm đạo đức mới, tiến bộ; quy định các chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể
vi phạm những quy định trên).
Pháp luật góp phần ngăn chặn sự
thoái hoá, xuống cấp của đạo đức; ngăn chặn việc hình thành những quan niệm đạo
đức trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc và tiến bộ xã hội; góp phần làm
hình thành những quan niệm đạo đức mới. Do vậy, Pháp luật là công cụ hữu hiệu
nhất để diệt trừ cái ác, ngăn chặn sự băng hoại của đạo đức.
Đạo đức tác động đến việc thực hiện
Pháp luật của các chủ thể: Những quy tắc đạo đức được thừa nhận trong pháp luật
và các quy định pháp luật được xây dựng phù hợp với các quan niệm, chuẩn mực
đạo đức xã hội thì sẽ phản ánh được ý chí, nhu cầu, lợi ích của các thành viên
trong xã hội, chúng sẽ được mọi người thực hiện một cách nghiêm chỉnh, tự giác
hơn vì họ thực hiện bằng lương tâm và niềm tin của họ, nhờ vậy, hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật sẽ cao hơn.
Ngược lại, những quan niệm, quy tắc
đạo đức trái với ý chí của nhà nước sẽ cản trở việc thực hiện pháp luật trong
thực tế. Đồng thời, những quy định pháp luật trái với đạo đức xã hội chắc chắn
sẽ rất khó đi vào đời sống, hiệu quả điều chỉnh quan hệ xã hội sẽ không cao, có
khi còn phản tác dụng.
Ý thức đạo đức của cá nhân giữ vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện pháp luật. Người có ý thức đạo đức tốt
thường là người có thái độ tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh thực hiện pháp
luật. Trong trường hợp vì vô ý dẫn đến vi phạm pháp luật thì họ thường có ý
thức ăn năn, hối hận, thành khẩn, lập công, sửa chữa vi phạm. Ngược lại, chủ
thể có ý thức đạo đức kém thì thường việc thực hiện Pháp luật sẽ không nghiêm,
dẫn tới sự coi thường Pháp luật, vi phạm Pháp luật vì thế sẽ gia tăng.
Đạo đức của nhà chức trách có ảnh
hưởng khá mạnh mẽ đến hoạt động áp dụng Pháp luật. Nếu là người có phẩm chất
đạo đức tốt thì khi đưa ra các quyết định áp dụng Pháp luật bao giờ cũng phải tính
đến các quan niệm đạo đức xã hội sao cho “đạt lí” nhưng cũng “thấu tình”. Ngược
lại, nếu họ là người có ý thức đạo đức kém thì thường dễ mắc sai lầm, thậm chí
vi phạm Pháp luật khi thi hành công vụ, làm ngơ trước cái ác, xử lí oan sai
người ngay, tha bổng kẻ phạm pháp… Đạo đức của người áp dụng Pháp luật có vai
trò đặc biệt quan trọng trong trường hợp phải áp dụng tương tự Pháp luật. Khi
đó, nhà chức trách không có các quy phạm pháp luật để làm căn cứ, họ phải dựa
vào các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã hội, dựa vào những lẽ phải trong cuộc
sống, dựa vào ý thức Pháp luật của bản thân để ban hành quyết định.
Ví dụ như: Đạo đức truyền thống của
dân tộc ta quan niệm rằng:
“Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một
lòng thờ mẹ kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Quy tắc đạo đức trên đã được nâng
lên thành quy phạm Pháp luật tại điều 35 của Luật hôn nhân và gia đình năm
2000: “Con có bổn phận yêu quý, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đăn của cha
mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình”.
Câu 3:
a) B có các hành vi vi phạm pháp
luật dân sự Căn cứ tại Điều 596 Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định như sau:
“1. Người do uống rượu hoặc do dùng
chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều chỉnh
hành vi, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường”.
Ngoài ra, B có khả năng phải chịu
trách nhiệm do có hành vi vi phạm pháp luật hình sự tùy theo mức độ thương tích
của 2 nạn nhân.
b) A và B sẽ phải chịu trách nhiệm
pháp lý sau: Trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính và có thể có trách
nhiệm hình sự.
Căn cứ vào điều 5 Luật Phòng, chống
tác hại của rượu, bia và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2020 thì A đã vi
phạm pháp luật vì hành vi rủ rê, lôi kéo B uống bia, rượu và bị xử phạt hành
chính căn cứ vào Nghị định 117/2020 (thay thế Nghị định 176/2013) của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, sẽ phạt tiền từ
500.000 – 1 triệu đồng đối với hành vi xúi giục, kích động, lôi kéo người khác
uống rượu bia, có hiệu lực từ ngày 15/11/2020.
B sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự,
căn cứ vào điều 596 Bộ Luật dân sự 2015: “Người do uống rượu hoặc do dùng chất
kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi
mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”.
Về bên quán ăn, B có trách nhiệm bồi
thường tài sản thiệt hại do mình gây ra, căn cứ vào Điều 589 Bộ Luật dân sự
2015:
“Điều 589. Thiệt hại do tài sản bị
xâm phạm Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoặc bị hư
hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử
dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.”
Về phía 2 nạn nhân bị bỏng nặng, B
có trách nhiệm bồi thường các khoản theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự
2015:
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị
thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị
giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình
của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị;
nếu người bị thiệt hại mất đi khả năng lao động và cần phải có người thường
xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người
bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thep quy
định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp về tinh thần do các
bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức
khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Ngoài ra, tùy vào mức độ thương tích
và phía nạn nhân, theo điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, trường
hợp say rượu cố ý gây thương tích cho người khác nhưng chưa đến mức chịu trách
nhiệm hình sự (tỉ lệ thương tích dưới 11% và không thuộc một các trường hợp đặc
biệt) thì người thực hiện sẽ bị phạt hành chính từ 02 – 03 triệu đồng. Và tùy
vào mức độ gây thương tích, B vẫn có thể chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi cố
ý gây thương tích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét