Câu hỏi 1: Cán cân thương mại quốc tế tại Việt Nam trong 5 năm qua
– Thực trạng và đề xuất.
Bài
làm
Cán cân thương mại quốc tế Việt Nam trong 5 năm qua
Trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, hoạt động xuất
nhập khẩu (XNK) hàng hóa dịch vụ tác động mạnh mẽ tới tăng
trưởng kinh tế và việc làm của mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển
và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. XNK và cán cân thương mại (CCTM)
là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, đồng thời cũng là bộ phận cấu thành nên tổng sản phẩm
quốc nội, là cơ sở tạo lập các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhất là
trong điều kiện hiện nay.
Đại
dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp và chưa có dấu hiệu ngừng lại, hoạt động
XNK nói riêng, khôi phục phát triển kinh tế nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Với
những diễn biến mới của tình hình trong nước và quốc tế, Chính phủ đã và đang sử
dụng các giải pháp kích cầu thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có
các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, kiểm soát nhập khẩu và cải thiện
CCTM nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu kép. Bên cạnh những
tác động tích cực, các giải pháp này còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa
đáp ứng được những biến động khó lường của dịch bệnh trong nước và toàn cầu.
Dưới đây là tình hình cán cân thương mại của
Việt Nam 5 năm trở lại đây. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch
XNK hàng: Năm 2016, kim ngạch XNK cả nước có
sự tăng trưởng ấn tượng khi đạt 350,74 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn
176,63 tỷ USD, tăng 9% (tương ứng tăng gần 14,52 tỷ USD) so với năm 2015; nhập
khẩu đạt hơn 174,11 tỷ USD, tăng 5,2% (tương ứng tăng hơn 8,46 tỷ USD) so với
năm 2015. Đặc biệt, năm 2016 cũng là năm Việt Nam đạt tỷ lệ xuất siêu cao, ở
mức 2,52 tỷ USD.
Năm 2017, tổng trị giá XNK tiếp tục tăng, đạt 425,12 tỷ USD, tăng
21% (tương ứng khoảng 73,74 tỷ USD) so với năm 2016. Trong đó, tổng trị giá
xuất khẩu đạt 214,02 tỷ USD, tăng 21,2% (tương ứng tăng 37,44 tỷ USD); tổng trị
giá nhập khẩu đạt 211,1 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 36,3 tỷ USD) so với
năm 2016.
Năm 2018, tổng kim ngạch XNK đạt 480,17 tỷ USD, tăng 12,2% (tương
ứng tăng 52,05 tỷ USD) so với năm 2017. Trong đó, xuất khẩu đạt 243,48 tỷ USD,
tăng 13,2% và nhập khẩu đạt 236,69 tỷ USD, tăng 11,1%. Tính chung, CCTM của
Việt Nam trong năm 2018 thặng dư 6,8 tỷ USD, cao gấp 3,2 lần so với mức thặng
dư của năm 2017.
Năm 2019, tổng kim ngạch XNK hàng hóa của cả nước lần đầu tiên cán
mốc 500 tỷ USD (đạt 517,26 tỷ USD, tăng 7,6%, tương ứng tăng 36,69 tỷ USD) so
với năm 2018. Trong đó, trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt 264,19 tỷ USD, tăng 8,4%
và nhập khẩu đạt 253,07 tỷ USD, tăng 6,8%. Đây là mức tăng trưởng ấn tượng khi
Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng XNK,
đóng góp nguồn lực cho NSNN và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Năm 2020, mặc dù ảnh hưởng của đại dịch covid-19 trên diện rộng,
song Việt Nam đạt được kỷ lục mới về quy mô kim ngạch XNK. Tổng trị giá XNK
hàng hóa của cả nước đạt 545,36 tỷ USD, tăng 5,4% với năm 2019. Trong đó, trị
giá hàng hóa xuất khẩu đạt 282,65 tỷ USD, tăng 7,0% (tương ứng tăng 18,39 tỷ
USD) và nhập khẩu đạt 262,70 tỷ USD, tăng 3,7% (tương ứng tăng 9,31 tỷ USD).
Trong năm 2020, Việt Nam đã có 31 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ
USD, trong đó có 9 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng xuất khẩu
trên 10 tỷ USD. Việt Nam đã xuất siêu chủ yếu vào thị trường các nước phát
triển, có yêu cầu khắt khe về chất lượng đối với hàng hóa nhập khẩu như: Hoa Kỳ
(xuất siêu gần 62,7 tỷ USD), Liên minh châu Âu (xuất siêu gần 20,3 tỷ USD),...
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do tác động của đại dịch covid-19, song
CCTM hàng hóa của cả nước vào cuối năm 2020 đạt giá trị thặng dư 19,95 tỷ USD,
đây là mức cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016.
CCTM nước ta 10 tháng đầu năm 2021: Theo Tổng cục Thống kê, tính
chung 10 tháng năm 2021, tổng kim ngạch XNK hàng hóa vẫn duy trì tốc độ tăng
cao, đạt 537,31 tỷ USD, tăng22,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu
tăng16,6%; nhập khẩu tăng 28,2%.
Xuất khẩu hàng hóa: Tính chung 10 tháng năm 2021, kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa ước tính đạt 267,93 tỷ USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 69,77 tỷ USD, tăng 7,7%, chiếm 26%
tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt
198,16 tỷ USD, tăng 20,1%, chiếm 74%.
Nhập khẩu hàng hóa: Tính chung 10 tháng năm 2021, kim ngạch nhập
khẩu hàng hóa ước tính đạt 269,38 tỷ USD, tăng 28,2% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó: khu vực kinh tế trong nước đạt 92,5 tỷ USD, tăng 22,7%; khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài đạt 176,88 tỷ USD, tăng 31,3%. Trong 10 tháng năm 2021 có
39 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 91,4% tổng kim
ngạch nhập khẩu.
Thực trạng: Mặc dù đại dịch covid-19 đã tạm kiểm soát song vẫn
tiềm ẩn nhiều thách thức trong hoạt động XNK của Việt Nam, tiếp tục có nhiều
ảnh hưởng, có thể chỉ ra một số sau:
- Kinh tế toàn cầu suy giảm trên diện rộng: Tăng trưởng kinh tế
toàn cầu năm 2020 sụt giảm sâu nhất kể từ sau cuộc đại suy thoái 1929-1930.
Theo Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), GDP toàn cầu năm
2020 sụt giảm 4,2% so với năm 2019. Năm 2020, phần lớn các nền kinh tế, khu vực
kinh tế trên toàn cầu đều tăng trưởng âm (ngoại trừ Trung Quốc, Ai Cập, Việt
Nam).
Các nền kinh tế là các thị trường lớn xuất khẩu của Việt Nam đều
giảm như: Tăng trưởng kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu suy giảm 7,3%; Mỹ
suy giảm 3,5%; Trung Quốc chỉ đạt mức tăng trưởng 2,3% - mức thấp nhất kể từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008,...
- Thương mại toàn cầu thu hẹp mạnh: Xu hướng suy yếu của hoạt động
thương mại toàn cầu xuất hiện trong cả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu ở phần
lớn các quốc gia trên thế giới khi nhu cầu về hàng hóa, nguyên liệu sản xuất
giảm mạnh và các chuỗi cung ứng hàng hóa bị gián đoạn. Triển vọng thương mại u
ám hơn tại các nước phụ thuộc vào xuất khẩu và hoạt động du lịch. Những nước
xuất khẩu dầu mỏ cũng chịu cú sốc mạnh khi giá dầu giảm trong nửa đầu năm 2020.
Thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng bởi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, dẫn tới
gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính có thể trầm trọng thêm bởi
đại dịch kéo dài.
- Đứt gãy chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và xu hướng dịch chuyển
đầu tư: Các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch
covid-19 bùng phát đã khiến thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi cung ứng đứt
gãy, dẫn tới làn sóng phá sản doanh nghiệp khắp thế giới. Vì sự đứt gãy đột
ngột của chuỗi cung ứng toàn cầu mà hiện tượng khan hiếm hàng hóa đã xảy ra
trên toàn thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo, sản xuất ô tô, thiết bị
y tế,... Trước tình hình này, các nước đã đa dạng hóa đầu tư nước ngoài, đẩy
mạnh nội địa hóa và khu vực hóa nhằm ngăn chặn rủi ro, đảm bảo sự ổn định cho
chuỗi cung ứng. Tại Việt Nam, một số ngành công nghiệp chế biến chịu tác động
mạnh: Ngành Dệt may do đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên liệu đầu vào, cầu giảm
mạnh và xuất khẩu giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt là xuất khẩu tới các thị
trường chủ lực và truyền thống.
- Công nghiệp hỗ trợ còn chậm phát triển: Việt Nam chưa sản xuất
được các sản phẩm đảm bảo chất lượng, quy mô để có thể tham gia được vào chuỗi
cung ứng sản phẩm, linh kiện cho các DN xuất khẩu.
- Tranh chấp thương mại và phòng vệ thương mại còn diễn biến phức
tạp: Mặc dù, Việt Nam đã và đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các
vấn đề trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại,
vượt qua các rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu nhưng thương mại
thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp với xu hướng bảo hộ thương mại ngày càng
tăng.
-Tranh chấp, xung đột giữa Nga và Ukraina
- Nguy cơ từ tình trạng dịch bệnh kéo dài: Đây là nguy cơ lớn nhất
và gia tăng rủi ro cho các nguy cơ vừa đề cập. Hiện nay, trước tình hình dịch
bệnh phức tạp, các doanh nghiệp đã và đang phải cố gắng duy trì sản xuất nhưng
vẫn đối mặt với nguy cơ các thị trường quốc tế sẽ dừng, hủy đơn hàng để chuyển
sang nước khác, đến khi dịch được kiểm soát, việc nối lại các mối quan hệ kinh
doanh sẽ rất khó khăn và cần phải có quá trình.
Giải pháp thúc đẩy XNK, cải thiện CCTM trong điều
kiện bình thường mới ở Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục tổ chức khai thác, tận dụng cơ hội từ
các FTA để tìm giải pháp phát triển thị trường và tháo gỡ các rào cản để thâm
nhập các thị trường mới; Tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến của đại dịch
covid-19 trên thế giới và trong nước để có các biện pháp ứng phó kịp thời, hỗ
trợ DN; Đưa ra những khuyến cáo đối với các cơ quan, DN tham gia XNK, cần nhận
thức rõ được những diễn biến trên thị trường thế giới để có thể tranh thủ khai
thác hết cơ hội, tiếp tục duy trì được thế mạnh xuất khẩu trong bối cảnh hiện
nay. Ưu tiên triển khai các hoạt động xúc tiến xuất khẩu và các thị trường xuất
khẩu sớm khôi phục sau đại địch; tập trung theo dõi sát tình hình từng thị
trường để rà soát, xác định các chủng loại hàng hóa mà các nước đang có nhu cầu
nhập khẩu để khai thác, thúc đẩy xuất khẩu.
Thứ hai, tăng cường các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp về
thị trường, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến XNK, tháo gỡ khó khăn về
đầu vào, hỗ trợ về thông tin và đẩy mạnh tổ chức các hoạt động xúc tiến thương
mại trực tuyến, nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa. Nâng cao năng lực trong công
tác cảnh báo sớm, phân tích, cảnh báo tình hình tăng trưởng xuất khẩu nóng, dẫn
tới nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại và chủ động có
biện pháp phù hợp để bảo vệ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để hỗ
trợ ngành sản xuất trong nước, từ đó nâng cao năng lực xuất khẩu.
Thứ tư, có chính sách hỗ trợ tín dụng, chính sách thuế
hỗ trợ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp XNK, đa dạng
hóa hơn nữa các đối tác thương mại, giảm thiểu những tác động đến từ một đối
tác thương mại cụ thể.
Thứ năm, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực quản trị
và sức khỏe tài chính cũng như khả năng thích ứng để vượt qua các thách thức,
rủi ro trong hoạt động giao thương quốc tế; đồng thời cần có những chuyển đổi
mạnh về cơ cấu ngành hàng thông qua việc nghiên cứu, dự báo các nhu cầu. Chú
trọng nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình xúc tiến thương mại cho phù hợp
với tình hình mới,...
Như vậy, trong những năm qua, Việt Nam tiếp tục
tận dụng tốt cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế để khai thác tối đa các thị
trường xuất khẩu, phát triển các thị trường mới. Mặc dù, hoạt động XNK của Việt
Nam đạt được một số kết quả ấn tượng, song vẫn luôn tiềm ẩn nhiều khó khăn, đặc
biệt là tình trạng dịch bệnh bùng phát kéo dài. Hoạt động XNK đã phải đối diện
với nhiều rào cản như việc vận chuyển hàng hóa gặp khó khăn, nhiều chuỗi cung ứng
bị gián đoạn, nhu cầu thị trường chưa hồi phục đồng đều,... Bối cảnh mới yêu cầu
các cơ quan quản lý và doanh nghiệp tham gia XNK cần chủ động, linh hoạt triển
khai các giải pháp để ứng phó với những rủi ro mới phát sinh, tận dụng tốt cơ hội
để thúc đẩy hoạt động XNK, góp phần cải thiện CCTM, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu kép trong điều kiện hiện nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét